Đế quốc Mỹ điên cuồng phong tỏa sông, biển miền Bắc lần thứ hai

Cuộc tiến công chiến lược năm 1972 của quân và dân ta ở miền Nam nổ ra đã đẩy quân ngụy Sài Gòn vào tình trạng nguy khốn. Tổng thống Mỹ Ních-xơn trắng trợn tuyên bố: “Thà thất bại trong bầu cử tổng thống còn hơn thua trong cuộc chiến tranh này”. Đế quốc Mỹ huy động không quân và hải quân điên cuồng phong tỏa sông, biển miền Bắc lần thứ hai.

Bất chấp sự phản đối của dư luận quốc tế và nhân dân tiến bộ Mỹ, đầu tháng 4-1972, chính quyền Ních-xơn điều động một lực lượng lớn hải quân và không quân đánh phá trở lại miền Bắc Việt Nam. Cùng với tập trung đánh phá các cơ sở kinh tế, quốc phòng trên đất liền, chúng đã tiến hành phong tỏa bằng thủy lôi và bom từ trường trên khắp các luồng lạch, sông biển với tính chất, mức độ khốc liệt hơn rất nhiều so với cuộc phong tỏa trước đây.

Ngày 9-5-1972, đế quốc Mỹ cho hàng loạt máy bay A6A, A7A, F4... từ Hạm đội 7 ở Biển Đông ồ ạt bay vào thả hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường xuống luồng Nam Triệu, Hải Phòng và vùng biển khu vực Hòn Gai, Cẩm Phả, Cửa Hội, Sông Gianh cùng các cửa sông chính thuộc các tỉnh Thái Bình, Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thanh Hóa... Đợt phong tỏa làm giao thông ra vào các cảng bị tê liệt. 26 tàu của Liên xô, Ba Lan, Trung Quốc, Cu Ba... bị kẹt tại cảng Hải Phòng với hàng chục ngàn tấn hàng chưa kịp bốc dỡ và hàng trăm ngàn tấn hàng còn tồn đọng ở các kho, bãi, cảng không chuyển đi được. Các tàu đang ở phao số 0 không vào được cảng phải quay ra khơi, dùng tàu Hải quân chở hoa tiêu tìm đường vào các nơi trú đậu an toàn ở khu vực vịnh Hạ Long.

Đế quốc Mỹ điên cuồng phong tỏa sông, biển miền Bắc lần thứ hai

Chính quyền Ních-xơn còn tuyên bố thời gian an toàn của thủy lôi là 3 ngày để yêu cầu các tàu nước ngoài nhanh chóng rời khỏi các cảng Hải Phòng, Hòn Gai, Cẩm Phả. Đây là đòn vừa đánh phủ đầu ta, vừa thăm dò để chuẩn bị cho những hành động chiến tranh phá hoại khốc liệt tiếp theo. Chỉ trong 10 ngày từ mồng 9 đến 19-5-1972, đế quốc Mỹ đã rải 43 bãi thủy lôi, bom từ trường ở các cửa sông, hải cảng, đường hàng hải quốc tế, các khu chuyển tải và vùng ven biển miền Bắc với tổng diện tích các bãi lôi lên tới hơn 655 km2, trong đó có 481 km2 ở biển và 174 km2 ở các luồng sông.

Cũng như cuộc phong tỏa lần thứ nhất (1967-1968), địch thực hiện nhiều đợt thả thủy lôi, bom từ trường. Đợt 1 từ ngày mồng 9 đến 19-5-1972, chúng thả ồ ạt để phủ đầu đồng thời mang tính chất thăm dò, đuổi tàu buôn nước ngoài ra khỏi các cảng của ta. Đợt 2 từ ngày 27-8 đến ngày 4-10-1972, địch tiếp tục thả hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường phong tỏa các cảng chính và cửa sông từ Hải Phòng đến Nam Quân khu 4. Đợt 3 từ ngày 18-12-1972 đến ngày 15-1-1973, chúng tiếp tục thả bổ sung thủy lôi, bom từ trường ở nhiều nơi. Chúng thả theo cấp độ leo thang từ thấp lên cao, từ thả để thăm dò phản ứng tiến đến thả đồng loạt, từ phạm vi hẹp đến rộng khắp, từ chỉ thả thủy lôi đến xen lẫn thủy lôi, bom từ trường và bom phá. Chúng tận dụng triệt để các điều kiện thời gian, thời tiết, khí tượng thủy văn phức tạp để thực hiện âm mưu phong tỏa.

Đặc biệt, từ ngày 18 đến 29-12-1972, đế quốc Mỹ mở chiến dịch Lai-nơ Bếch-cơ II dùng máy bay chiến lược B52 và các loại máy bay chiến thuật hiện đại nhất, điên cuồng đánh phá Hà Nội, Hải Phòng, kết hợp với tàu chiến bắn phá ác liệt các vùng ven biển. Chúng tiếp tục thả thủy lôi, bom từ trường phong tỏa các khu vực cảng chính Hải Phòng, chia cắt, cô lập các đầu mối giao thông thủy, bộ... khiến các tuyến vận tải ven biển của ta bị tắc nghẽn, nhiều tuyến đường sông cũng bị ngừng trệ.

Khác với cuộc phong tỏa lần trước, đế quốc Mỹ đã áp dụng những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật quân sự để đưa cuộc chiến phá hoại và phong tỏa này lên một quy mô mới. Chúng sử dụng thủy lôi MK-52 cải tiến có lắp đầu suy giảm số 5 thả xen kẽ với bom từ trường DST-36 được cải tiến đầu nổ MK42 với 4 loại ngòi nổ có tính năng gây nổ khác nhau và chế độ định thời gian tự hủy khác nhau. Đồng thời chúng phong tỏa ở tất cả các cửa sông, hải cảng, cả trong sông, ngoài biển và trong vịnh, cả luồng chính và luồng phụ nhằm ngăn chặn triệt để các hoạt động giao thông vận chuyển của ta. Cuộc chiến đấu chống phong tỏa của quân và dân ta vô cùng gian khổ, ác liệt.

Theo thống kê, đế quốc Mỹ đã ném xuống miền Bắc nước ta 17.080 quả bom, mìn các loại, trong đó có 7.963 quả thủy lôi và bom từ trường phong tỏa các khu vực cảng, cửa sông, ven biển thuộc 10 tỉnh duyên hải từ Quảng Ninh đến Quảng Trị. Những khu vực bị phong tỏa nặng nhất là Hải Phòng (1.733 quả), cửa Hội (1.352 quả), Hòn La (1.162 quả), sông Gianh (610 quả)…

Sau khi chiến dịch Lai nơ- Bếch cơ II thất bại, buộc phải chấm dứt ném bom trên miền Bắc Việt Nam kể từ ngày 30-12-1972 và trở lại đàm phán ở Pari, nhưng Mỹ vẫn tiếp tục thả thủy lôi, bom từ trường xuống các vùng sông, biển ở phía Nam Quân khu 4. Đến ngày 15-1-1973, chúng mới chấm dứt hoàn toàn việc thả thủy lôi và bom từ trường.

HQVN (còn nữa)

Bài viết, video, hình ảnh đóng góp cho chuyên mục vui lòng gửi về bhqdt@baohaiquanvietnam.vn